Bệnh Động mạch chi dưới mạn tính ở người bệnh Đái tháo đường
Bệnh động mạch chi dưới mạn tính chỉ tình trạng một phần hoặc toàn bộ chi dưới không được cung cấp máu đầy đủ để đáp ứng nhu cầu hoạt động của chi với thời gian trên 2 tuần.
Biểu hiện lâm sàng từ không triệu chứng đến có triệu chứng, giai đoạn sớm như đau cách hồi ở vùng hông, mông đùi hoặc bắp chân, nặng hơn cơn đau xảy ra cả khi nghỉ, giai đoạn muộn thường có loét hoặc hoại tử và đôi khi phải cắt cụt chi.
Các tổn thương cơ bản của bệnh là hẹp và tắc nghẽn do xơ vữa động mạch. So với bệnh nhân không mắc bệnh đái tháo đường, tình trạng xơ vữa, xơ cứng động mạch chi dưới ở người đái tháo đường có đặc điểm là bệnh nặng, tiến triển nhanh, tiên lượng xấu. Ngoài ra, những người bệnh đái tháo đường thường khởi phát bệnh sớm và tuổi trẻ hơn. Điều này cho thấy việc phòng ngừa, phát hiện và điều trị sớm là rất quan trọng.
Theo quan điểm của y học cổ truyền, các triệu chứng của bệnh động mạch chi dưới mạn tính ở người bênh đái tháo đường thuộc về “Tiêu khát cân tý”. Đây là tình trạng do “chính hư tà thịnh” phát động huyết ứ tý trở. Tình trạng này kéo dài có thể dẫn đến hoại tử chi dưới.
Sự xuất hiện của các tổn thương kinh mạch, lạc mạch chi dưới có liên quan đến dương hư, hàn ngưng, ứ trở (đàm thấp, huyết ứ). Đối với người bệnh đái tháo đường, bệnh tiến triển kéo dài sẽ gây tổn thương tân dịch của cơ thể, dẫn đến cả khí huyết, âm dương suy yếu, huyết không lưu thông thuận lợi, sau đó cảm phải hàn tà gây ứ huyết, trở trệ mạch lạc, gây ra biểu hiện lâm sàng là chi dưới đau nhức, tê bì châm chích, da khô đổi màu, thậm chí lở loét, hoại tử chi do nuôi dưỡng kém.
Có thể phân thành các thể bệnh như sau: Thể khí hư huyết ứ, thể âm hư huyết ứ, thể hàn ngưng huyết ứ, thể đàm ứ trở lạc, thể Can Thận khuy hư.
Thường dùng các vị thuốc hoạt huyết thông lạc, ôn dương khứ hàn, trừ đàm như: Hoàng kỳ, Đan sâm, Đương quy, Xuyên ngưu tất, hồng hoa, Đào nhân, Thủy điệt, Địa long, Phụ tử chế, Quế chi, Tri mẫu, Hoàng bá, Mộc qua, Hoạt thạch, Thổ phục linh, Trần bì, Bán hạ,…
Châm cứu các huyệt như Can du, Phế du, Tỳ du, Thận du, Cách du, Vị du, Tỳ du, Túc tam lý, Tam âm giao, Lương khâu, Phong long, Âm lăng tuyền,… giúp hoạt huyết chỉ thống, khích thích khí huyết kinh mạch lưu thông.
Xoa bóp bấm huyệt cũng giúp khí huyết ở các vùng đau, tê bì được tuần hoàn tốt hơn, cải thiện tình trạng tắc trệ, các huyệt hay được sử dụng gồm Túc tam lý, Địa cơ, Thái khê, Dũng tuyền,…
Bệnh động mạch chi dưới khá phổ biến ở bệnh nhân đái tháo đường, vừa là nguyên nhân đồng thời cũng có thể là yếu tố thuận lợi dẫn đến loét bàn chân nặng, nhưng thường bị bỏ sót cho đến khi bị các biến chứng nặng như hoại tử, cắt cụt chi. Việc điều trị và chăm sóc những bệnh nhân có biến chứng tắc động mạch chi dưới rất khó khăn, tốn kém,và hiệu quả không cao. Vì vậy khi cần phải tầm soát và kết hợp nhiều phương pháp điều trị để nâng cao hiệu quả.
Tác giả: Bác sĩ Chuyên khoa I – Bùi Thị Yến Nhi
Lịch khám Chiều thứ 5 – Sáng thứ 7 hàng tuần