Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM - Cơ sở 3https://bvdaihoccoso3.com.vn/coso3/uploads/logo-site.png
Chủ nhật - 12/03/2023 21:50
Theo Hội nghị lần thứ 7, năm 2003 của Liên ủy ban quốc gia về phòng ngừa, phát hiện, đánh giá và điều trị tăng huyết áp (JNC VII- 2003): một người lớn có tăng huyết áp khi huyết áp tâm thu ≥ 140 mmHg hoặc huyết áp tâm trương ≥ 90mmHg.
Nguyên nhân:
Trong số những người bị tăng huyết áp, có khoảng 90-95% không có nguyên nhân, gọi là tăng huyết áp vô căn hoặc tăng huyết áp tiên phát, hoặc bệnh tăng huyết áp.
Chỉ có khoảng 5-10% tăng huyết áp có nguyên nhân, đó là tăng huyết áp thứ phát sau một số bệnh khác như:
Nguyên nhân do thận: Viêm thận cấp, Bệnh thận mạn tính, Hẹp động mạch thận, Thận đa nang, Ứ nước bể thận, U tăng tiết renin.
Nguyên nhân nội tiết: Cường aldosteron tiên phát (hội chứng Conn), Hội chứng Cushing, U tủy thượng thận, Bệnh tuyến giáp hoặc cận giáp.
Nguyên nhân khác: Hẹp eo động mạch chủ, do thuốc hoặc liên quan đến thuốc.
Có rất nhiều yếu tố gây tăng huyết áp tiên phát như: hút thuốc lá, uống rượu, cách sống sinh hoạt thay đổi, yếu tố tâm lý, béo phì, sự thay đổi về gen.
Quản lý bệnh tật liên quan:
Đối với các trường hợp tăng huyết áp thứ phát, ngoài việc theo dõi và điều trị huyết áp thường xuyên, cần tiếp tục điều trị các bệnh là nguyên nhân gây Tăng huyết áp.
Ăn uống:
Hướng dẫn người bệnh thực hiện chế độ ăn uống hợp lý để góp phần điều chỉnh huyết áp, trong đó cần chú ý tới các yếu tố có liên quan đến huyết áp cơ thể như: Natri, kali, calci, mỡ động vật, đường và chất xơ.
Natri: có ảnh hưởng lớn đối với huyết áp cơ thể. Mức natri có thể tạo ra từ hai nguồn chính: phần cho thêm vào thức ăn như muối, nước mắm,...(phần này phụ thuộc vào khẩu vị của từng người), natri được cho thêm vào trong quá trình chế biến, bảo quản thực phẩm như các thực phẩm đóng hộp, hun khói, sấy khô, ướp muối..., phần có sẵn trong thực phẩm. Hiện nay Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo không nên có chế độ ăn nhiều natri (không quá 2% muối trong thức ăn và 1% muối trong nước uống, hoặc không quá 5,8g/ngày). Trong thực đơn cần hạn chế các loại thức ăn nhanh, các thực phẩm chế biến công nghệ vì các thực phẩm này thường chứa nhiều muối.
Lipid: đây là yếu tố ảnh hưởng tới hệ tim mạch nói chung và huyết áp nói riêng. Những chất béo chứa các acid béo no có ảnh hưởng tới quá trình vữa xơ động mạch (như mỡ bò, mỡ cừu, mỡ lợn). Những chất béo chứa các acid béo không no (có trong các loại dầu thực vật) không gây hại cho hệ tim mạch, đồng thời người ta nhận thấy các chất béo này còn có khả năng làm tan bớt các mảng vữa xơ. Chất béo có hại cho hệ tim mạch nhưng cũng rất cần cho cơ thể, đồng thời là dung môi giúp hòa tan và hấp thu các vitamin cần thiết cho cơ thể như: vitamin A, D, E, K... Đối với người cao tuổi bị tăng huyết áp, không nên thực hiện chế độ kiêng chất béo tuyệt đối mà nên có chế độ ăn giảm béo. Những thực phẩm có thể sử dụng đối với người cao tuổi tăng huyết áp bao gồm: lòng đỏ trứng, sữa đã loại bớt chất béo (sữa gầy), sữa chua, mỡ của một số loại gia cầm như gà, vịt ,cá, các loại dầu thực vật (dầu đậu nành, dầu vừng, dầu oliu...). Một số loại thực phẩm chứa chất béo không nên ăn nhiều bao gồm: sữa chua loại bỏ chất béo, bơ, các loại phủ tạng động vật (gan, óc...). Không nên ăn quá 30g lipid/ngày.
Protid: là phần quan trọng trong chế độ dinh dưỡng hằng ngày, một chế độ ăn cung cấp đủ protein giúp cơ thể hoạt động có hiệu quả. Người tăng huyết áp không cần hạn chế thịt, cá mà nên sử dụng loại thức ăn này một cách hợp lý. Cá là loại thức ăn tốt cho hệ tim mạch. Nên sử dụng thịt nạc của gia súc gia cầm như: trâu, bò, dê, lợn, gà ,vịt, ngan, ngỗng... Ngoài ra, một số loại thức ăn có nguồn gốc từ thực vật cũng là nguồn cung cấp protein rất tốt cho cơ thể như: các loại nấm, các loại đậu, mè, đậu phộng...
Glucid: là nguồn cung cấp năng lượng chính của cơ thể, cần ăn đủ theo nhu cầu lao động và sinh hoạt. Nếu chế độ ăn quá nhiều glucid, cơ thể tự động dự trữ chất này tại các mô mỡ dưới dạng lipid, làm tăng lượng lipid trong cơ thể, từ đó tăng nguy cơ mắc bệnh tăng huyết áp. Glucid có trong rất nhiều các loại thực phẩm, chủ yếu là từ ngũ cốc, gạo, lúa mì, củ, các loại quả và sữa... Đối với người tăng huyết áp nên dùng các hạt ngũ cốc nguyên vẹn như gạo tẻ, gạo nếp, khoai củ. Nên hạn chế sử dụng các loại đường, mật ong.
Năng lượng: đối với người mắc chứng thừa cân, béo phì, ít hoạt động có tăng huyết áp, nên thực hiện chế độ ăn có năng lượng thấp (1200-1600 Kcal/ ngày). Đối với người lao động ở mức độ vừa phải, nên hạn chế ở mức 1800- 2000 Kcal/ ngày.
Rau và trái cây: là những thức ăn cần thiết đối với người tăng huyết áp. Loại thức ăn này chứa nhiều kali, hầu như không có natri nên có tác dụng làm giãn mạch, giảm huyết áp. Các loại rau và trái cây còn chứa nhiều chất xơ, các loại vitamin thiên nhiên và các chất chống oxy hóa, góp phần chống lão hóa, cần thiết cho hoạt động tiêu hóa, giúp thải trừ cholesterol...
Không sử dụng hoặc hạn chế sử dụng rượu, thuốc lá, cà phê đối với người tăng huyết áp.
Tâm lý:
Thầy thuốc cần thực hiện công tác tư vấn để người bệnh có thái độ tâm thần đúng mức trong cuộc sống.
Hướng dẫn người bệnh hạn chế các căng thẳng tâm lý bằng nhiều phương pháp như: ngủ đúng giờ và đủ giấc, có biện pháp giải tỏa tinh thần phù hợp giải quyết các xung đột tâm lý có ảnh hưởng tới huyết áp.
Sinh hoạt:
Nên tư vấn cho người bệnh có chế độ làm việc, tập luyện kết hợp với chế độ nghỉ ngơi hợp lý, tránh căng thẳng đầu óc, làm việc quá sức.
Khuyến khích người bệnh tham gia các hoạt động mang tính chất thư giãn, phù hợp với nhu cầu và ý thức của mỗi người.
Cần chú ý đến sự thay đổi khí hậu để có chế độ sinh hoạt phù hợp, hạn chế cơn tăng huyết áp.
Luyện tập:
Hướng dẫn người bệnh tập thể dục hằng ngày và bài tập thể dục nhẹ nhàng, phù hợp với tình hình sức khỏe.
Khuyên người bệnh không nên tập thể dục vào thời gian quá sớm hoặc quá muộn trong ngày.
Tác giả bài viết: BS. Nguyễn Phối Hiền
Nguồn tin: UMC3 Communication
Trích nguồn: Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM - Cơ sở 3