Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM - Cơ sở 3https://bvdaihoccoso3.com.vn/coso3/uploads/logo-site.png
Thứ ba - 09/05/2023 02:40
Cây Đu đủ (Carica papaya Linn) là một loại cây ăn quả có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới châu Mỹ, được đưa vào khu vực nhiệt đới châu Á, châu Phi. Ngày nay, đu đủ được trồng ở phần lớn các nước nhiệt đới như Brasil, Ấn Độ, Nam Phi, Sri Lanka, Philippines, Việt Nam. Ở nước ta cây đu đủ được trồng khắp cả nước, đặc biệt trồng nhiều ở trung du và bán trung địa và các tỉnh ở đồng bằng Sông Hồng.
Cây trưởng thành có chiều cao lên tới 3 đến 10 mét. Lá được mọc trực tiếp từ thân và tập trung ở phần lớn ở gần ngọn. Lá cây mọc so le chia nhiều thùy và mép lá như bị xẻ sâu. Phần cuống lá dài, rỗng bên trong. Hoa đu đủ thường mọc ở nách lá, và thường có 3 loại hoa khác nhau: hoa lưỡng tính, hoa đực và hoa cái. Các loại cây Đu đủ trồng thương mại thường có hoa lưỡng tính. Đôi khi cũng có những cây Đu đủ tạp tính mang cả 3 loại hoa trên cùng một cây. Đu đủ đực ra hoa quanh năm, mọc thành cụm từ cuống lá, cuống cụm hoa rất dài. Một cây đực trưởng thành thường ra rất nhiều hoa nhưng lại không có quả.
Đu đủ là một cây rất dễ trồng, phù hợp với nhiều điều kiện khí hậu khác nhau, cho nhiều quả có năng suất cao. Quả Đu đủ là loại trái cây phổ biến, có nhiều giá trị dinh dưỡng chứa nhiều vitamin cần thiết cho cơ thể, ngoài ra quả chín có chứa các tiền vitamin A như: β-caroten, lycopen, lutein, zeaxanthin,…và nhiều vitamin như: A, B5, B6, E, acid folic… Ngoài ra, nhiều bộ phận khác nhau của cây Đu đủ đều được sử dụng làm thuốc như: lá, hoa, hạt, rễ,…. đặc biệt là lá. Trong kinh nghiệm sử dụng của người dân, lá cây Đu đủ được sử dụng để sát khuẩn, kháng nấm, kháng viêm, chữa sốt rét, trừ giun sán. Chất carpain từ lá Đu đủ còn tác dụng làm chậm nhịp tim, có trường hợp còn sử dụng để thay thế Digitalis làm thuốc trợ tim. Chất mủ trắng của đu đủ có chứa một loại enzyme gọi là “papain” có khả năng thủy giải protein và nó được sử dụng để làm mềm thịt, làm chất khử trùng để băng vết thương, phá thai, dùng trong trường hợp khó tiêu, nấm ngoài da, bệnh vẩy nến và ung thư, papain còn có tác dụng trung hòa một số độc tố và toxalbumin. Nước hãm từ rễ đã được sử dụng theo truyền thống trong điều trị các bệnh hoa liễu, bệnh trĩ và bệnh mụn cóc. Ở Việt Nam, theo tài liệu “Những cây thuốc và vị thuốc của Việt Nam” của GS. Đỗ Tất Lợi người dân thường sử dụng nhựa Đu đủ dùng làm thuốc trị giun như giun kim, giun đũa, sán lợn nhưng lại không có tác dụng với giun móc. Hạt đu đủ cũng cho thấy có khả năng kháng khuẩn mạnh. Hoa đu đủ đực tươi hoặc phơi khô hấp với đường hoặc đường phèn dùng chữa bệnh ho, viêm ống phổi, mất tiếng. Rễ đu đủ sắc uống làm thuốc cầm máu trong bệnh băng huyết, bệnh sỏi thận. Có người dùng rễ đu đủ làm chế giả nhân sâm vì rễ đu đủ giống hình người, uống cũng thấy đói, ăn ngon cơm.
Có thể thấy theo kinh nghiệm dân gian, Đu đủ là một loại thực phẩm đồng thời là một dược liệu đa chức năng. Tuy nhiên, theo các tài liệu ghi nhận trước đây đều không đề cập đến tác dụng điều trị ung thư của lá và hoa Đu đủ. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, rất nhiều thông tin cho rằng lá và hoa Đu đủ, đặc biệt là hoa Đu đủ được xem là một thần dược có tác dụng chữa nhiều loại ung thư khác nhau.
Để tìm các căn cứ khoa học hiện đại giải thích cho các công dụng cho việc sử dụng trong dân gian đặc biệt là các lời đồn về tác dụng kháng ung thư của hoa Đu đực, tác giả đã tra cứu nhiều nguồn tài liệu khác nhau gồm các đề tài, bài báo nghiên cứu trong và ngoài nước về lá và hoa Đu đủ đực, đặc biệt hoa của cây Đu đủ đực. Kết quả cho thấy hầu như các nghiên cứu về ung thư trên hai bộ phận này đều là các thử nghiệm in vitro trên các dòng tế ung thư được nuôi cấy bên ngoài cơ thể sống, chưa có nhiều nghiên cứu trên cơ thể động vật (trừ một báo cáo nghiên cứu trên chuột từ nhóm nghiên cứu tại Hà Tĩnh) và đặc biệt không thấy các nghiên cứu trên người (nghiên cứu lâm sàng). Các nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài cho thấy lá Đu đủ có tác dụng ức chế trung bình trên một số dòng tế bào ung thư nuôi cấy in vitro và đều kiến nghị cần phải có những nghiên cứu sâu hơn mới có thể khẳng định. Về liều sử dụng, các nghiên cứu trong và ngoài nước đều cho thấy lá Đu đủ ít độc, chưa tìm thấy liều gây độc tính cấp, theo quy đổi từ có thể sử dụng khoảng Đối với hoa Đu đủ, các kết quả nghiên cứu hiện nay chủ yếu đến từ Việt Nam và cũng chưa có sự thống nhất với nhau, chẳng hạn nghiên cứu của nhóm tác giả ở TP. HCM và Hà Tĩnh đều đi đến kết luận cao chiết ethanol của hoa Đu đủ không thể hiện hoạt tính gây độc trên các dòng tế bào ung thư được thử nghiệm, trong khi nghiên cứu của nhóm tác giả tại Đà Nẵng lại cho thấy cao chiết phân đoạn của dược liệu này có tác dụng trung bình trên một số dòng tế bào ung thư được thử. Điều khác biệt này có thể đi từ nguồn nguyên liệu, cách chuẩn bị cao chiết và nồng độ thử khác nhau.
Tuy nhiên, có thể đi đến một nhận định chung là với các chứng cứ khoa học hiện có, chưa đủ cơ sở khoa học hiện đại trong việc sử dụng lá và hoa Đu đủ đực trong phòng và điều trị ung thư. Tương tự ngâm hoa đu đủ đực với mật ong uống điều trị ho, viêm phế quản, hen, hiện nay cũng chưa có nghiên cứu có thể khẳng định, tuy nhiên nếu dựa vào các hợp chất đã phân lập được do các tác giả tại Việt Nam thực hiện cho thấy hoa Đu đủ rất giàu các hợp chất flavonoid như kaempferol, quercetin, quercitrin,… các hợp chất này từ lâu đã được chứng minh các tác dụng kháng khuẩn, kháng viêm và chống oxy hóa, trong khi Mật ong theo Y học cổ truyền là một dược liệu có tác dụng bổ dưỡng, kháng viêm, nâng cao miễn dịch, chữa ho rất tốt. Sự kết hợp này có thể là cơ sở cho việc sử dụng bài thuốc này với các tác dụng kể trên.
Tóm lại, với các phân tích ở trên cho thấy chưa đủ căn cứ khoa học cho việc sử dụng hoa Đu đủ đực cho tác dụng chữa ung thư. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu còn phụ nhiều yếu tố khác nhau, vì vậy kinh nghiệm dân gian cũng cần được xem trọng. Hiện nay độc tính của lá và hoa Đu đủ chưa được đánh giá đầy đủ, do đó, ta có thể sử dụng chúng như một trà uống thông thường nhưng cần phải chú ý liều lượng, có thể sử dụng theo liều thông thường khoảng 4-12 g/ ngày trong một khoảng thời gian nhất định (không uống thay nước), cần thận trọng với một số đối tượng đặc biệt như trẻ em, phụ nữ có thai và người bị loét dạ dày. Khi sử dụng cho mục đích điều trị hay hỗ trợ điều trị bệnh thì đều cần phải hỏi ý kiến của chuyên gia trong lĩnh vực YHCT để có cách sử dụng phù hợp.